Một vấn đề chung của tất cả người học Tiếng Anh (tôi cũng không ngoại lệ) là học từ vựng Tiếng Anh xong rất hay quên từ. Nhẹ thì quên vài từ, nặng thì học bao nhiêu quên bấy nhiêu, thành ra không khác gì nước đổ lá khoai. Học Tiếng Anh đến cả chục năm mà vốn từ vựng vẫn chẳng cải thiện là bao. Vậy có giải pháp nào để chúng ta có thể nhớ từ lâu được hay không? Tin vui là “Có” các bạn ạ.
A – Phương pháp rèn trí nhớ:
Hồi còn đi học, tôi rất thích các trò chơi hoặc câu đố về logic và thử thách trí nhớ. Vì ham chơi nên tôi mang luôn trò chơi đó vào việc học Tiếng Anh. Cách tôi học là như thế này:
- Buổi 1, cô dạy từ vựng, ngữ pháp gì về Tiếng Anh, tôi sẽ ghi chép vào vở và học tất cả những cái đó.
- Trước khi bắt đầu buổi 2, tôi sẽ nhẩm lại trong đầu tất cả những gì đã được học của buổi 1 để tự đố xem mình nhớ được bao nhiêu %. Cái nào quên, tôi mở vở ra học lại, nhẩm ôn đầu vài lần cho nhớ. Sau đó vào buổi học thứ 2, ghi chép vào vở.
- Trước buổi 3, tôi tự nhẩm lại trong đầu tất cả những gì đã học của buổi 1+2. Sau đó học buổi 3 và ghi chép.
- Trước buổi 4, tôi nhẩm lại kiến thức buổi 1+2+3, sau đó học buổi 4…
… Cứ ôn tập tích lũy của tất cả các buổi trước như vậy, cho đến khoảng buổi 7,8 thì kiến thức buổi 1,2 tôi đã thuộc nhuyễn như cháo rồi. Thì lúc đó tôi bỏ buổi 1,2 ra và tiếp tục ôn tập tích lũy từ buổi 3 trở đi. Và cứ lặp lại phương pháp đó như vậy. Tuy nhiên, chưa hết, khi học đến bài xa xa nào đó, ví dụ bài 25, 26, tôi sẽ quay lại kiểm tra ngẫu nhiên một vài bài rất cũ, ví dụ bài 1,2,4,7 chẳng hạn. Với cách ôn luyện như vậy, tôi thấy mình nhớ từ vựng khá hiệu quả.
Nghe thế tưởng là việc ôn tập tích lũy sẽ mất nhiều thời gian lắm, nhưng thật ra cực nhanh. Những kiến thức đã được ôn đến lần thứ 3, thứ 4 thì tôi chỉ cần nhẩm lướt trong đầu độ 1-2 phút là xong, vì gần như là tôi đã thuộc lòng rồi. Cho nên có thể tôi chỉ cần ôn lại kiến thức 5-6 bài Tiếng Anh trong 10 phút nghỉ chuyển tiết học là đủ. Tuy nhiên, không vì ôn nhanh mà tôi bỏ qua chúng, tôi vẫn ôn thêm vài lần nữa, trước khi tin chắc là những kiến thức đó đã khắc sâu vào đầu và tôi có thể bỏ chúng ra khỏi lượt ôn tập.
Lúc ấy tôi cứ nghĩ là mình đang chơi một trò chơi tự thử thách bản thân thôi. Nó giúp cho tôi đến giờ vẫn nhớ được hầu hết từ vựng và kiến thức Tiếng Anh học từ thời phổ thông. Nếu giờ có quên xíu thì tôi chỉ cần đọc lại một lượt là có thể nhớ lại rất nhanh.
Mãi đến gần đây, tôi mới biết phương pháp ôn luyện từ mới và ngữ pháp Tiếng Anh của mình khá tương đồng với một phương pháp khoa học về luyện tập trí nhớ có tên là “Spaced Repetition” – “Lặp lại cách quãng”. Phương pháp này giúp chúng ta có thể nhớ lâu mọi kiến thức, chứ không chỉ Tiếng Anh, nên nó rất hữu ích cho việc học tập nói chung.
Nhà tâm lý học nổi tiếng người Đức Hermann Ebbinghaus khi nghiên cứu tìm ra quy luật của trí nhớ đã đưa ra khái niệm “Forgetting Curve” – “Đường cong quên lãng”. Lý thuyết này nêu lên quy luật: nếu một thông tin được nạp vào bộ não xong mà không có bất kỳ hoạt động gợi nhớ nào sau đó, thì mức độ ghi nhớ của não đối với thông tin đó sẽ giảm dần theo thời gian, sau khoảng 3 ngày thì khả năng ghi nhớ chỉ còn hơn một nửa. Tuy nhiên, bằng hoạt động gợi nhớ chủ động thông qua ôn tập, tự kiểm tra, rút kinh nghiệm… thì thông tin đó sẽ được lưu giữ lâu dài hơn trong bộ não và dần dần đi vào vùng ghi nhớ dài hạn của não bộ. Việc ôn tập này sẽ hiệu quả khi được thực hiện cách quãng vào các thời điểm vàng mà não sắp sửa quên kiến thức. Phương pháp rèn trí nhớ này được gọi là “Lặp lại cách quãng” là vì vậy.

Ngoài việc vô tình áp dụng Spaced Repetition ra, tôi nhận thấy việc ghi chép kiến thức cẩn thận vào vở cũng là một hoạt động bổ trợ trí nhớ cực tốt. Ngày xưa thì tài liệu học tập thiếu thốn, máy tính, Internet và Google cũng chưa mạnh như bây giờ, nên học sinh buộc phải ghi chép bài giảng của thầy cô vào vở. Điều đó giúp chúng ta học Tiếng Anh bằng nhiều giác quan: bằng mắt nhìn – tai nghe – miệng nói – tay viết – não xử lý và liên kết. Chính sự phối hợp của nhiều bộ phận cùng lúc như vậy giúp ta nhớ lâu hơn. Còn bây giờ, máy tính, tài liệu in sẵn, thông tin trên internet đầy rẫy, nhiều bạn học Tiếng Anh chỉ bằng cách tra kiến thức trên mạng hoặc đọc slide thầy cô in sẵn cho mà không tự tay viết lại. Chính vì thế chúng ta để mất đi sự tham gia của một giác quan quan trọng vào quá trình học, dẫn tới mau quên hơn.
Quay lại với Spaced Repetition, ngoài cách ôn từ đơn thuần chán ngắt như của tôi, còn cách nào thú vị hơn không? Đương nhiên có. Bạn có thể tạo ra các game ôn tập từ vựng và ngữ pháp để ôn tập lại, bạn có thể tìm một “đối thủ” để chơi cùng. Không khí ganh đua giành chiến thắng một cách lành mạnh là động lực cực kỳ tốt để bạn tiến lên:
- Che cột nghĩa tiếng Việt, nhìn từ Tiếng Anh nói nghĩa tiếng Việt. Ngược lại, che từ tiếng Anh, nhìn nghĩa tiếng Việt rồi viết ra và đọc chính xác từ tiếng Anh.
- Trò chơi hangman
- Tạo ra nhiều từ có nghĩa nhất có thể từ một số chữ cái cho trước
- Nối từ: viết nối từ sao cho chữ cái cuối cùng của từ phía trước là chữ cái đầu tiên của từ tiếp theo
- Nghĩ ra nhiều từ nhất có thể thuộc một chủ điểm từ vựng nào đó
- Một người mô tả bằng hành động (không nói), người kia đoán từ Tiếng Anh…
Nếu bạn chuộng công nghệ, thích dùng app thì có thể thử trải nghiệm MochiMochi MochiMochi – Ghi nhớ 1000 từ vựng trong 1 tháng (mochidemy.com), một app học từ vựng tiếng Anh dựa trên nguyên lý Spaced Repetition và nó sẽ nhắc bạn ôn tập từ vào đúng thời điểm mà bạn chuẩn bị quên.
B – Đánh cả cụm:
Đây là cách gọi vui của tôi đối với việc học một từ theo một nhóm từ, thay vì học một từ riêng lẻ. Việc học nhóm từ này sẽ có tác dụng bổ trợ cho nhau trong việc nhớ từ. Đánh cả cụm có mấy biến thể như sau:
Biến thể 1: Đặt câu với từ mới
Tức là đặt từ mới học trong một ngữ cảnh, trong một câu chuyện chứ không phải là học chơ vơ trọc lóc một từ. Nhưng cách đặt câu tốt nhất là theo kiểu giải nghĩa, hoặc trong một ngữ cảnh duy nhất mà chỉ có từ đó mới điền được vào chỗ trống.
Tôi lấy ví dụ để bạn dễ hiểu.
Ví dụ bạn học từ “Dog” (con chó). Nếu bạn đặt câu là “I have a dog” thì thôi tôi xin, bạn đừng đặt câu cho xong 🙂 Vì đến khi học “Cat” bạn lại đặt câu “I have a cat”, học “Pig” sẽ lại là “I have a pig” đúng không? Những câu đó không có tác dụng phân biệt gì 3 con đó cả, và vì thế đó là dạng câu lười, “đặt câu để đối phó”, nó không giúp gì cho việc nhớ từ lâu và sâu. Thay vì thế, bạn có thể đặt một câu ngắn thế này thì tốt hơn nhiều: “My dog often barks when strangers come to my house” (Chú chó nhà tôi thường sủa khi có người lạ đến nhà). Mèo hay lợn thì không sủa được rồi, vậy thì đích thị nó là con chó. Đặt từ mới trong một câu như vậy cũng giúp hình ảnh hóa từ ngữ một cách sinh động, giúp ta nhớ từ lâu hơn.
Biến thể 2: Học theo họ từ: Danh từ – Động từ – Tính từ
Cách học này rất đơn giản nhưng cực kỳ tốt, tôi nhấn mạnh bạn nên cân nhắc học theo cách này. Bởi vì, khi bạn chỉ học 1 từ theo một dạng từ (ví dụ danh từ), thì đến khi cần dùng từ đó dưới dạng động từ hay tính từ bạn cũng sẽ bí rị. Vậy thì cũng không có ích gì cho việc sử dụng và giao tiếp.
Với cách học này, tôi sẽ có 1 cuốn vở. Mỗi trang sẽ kẻ chia 4 cột: Noun (danh từ), Verb (động từ), Adjective (tính từ), Meaning (nghĩa tiếng Việt). Mỗi khi học 1 từ tiếng Anh, tôi sẽ cố gắng điền tối đa cả 4 cột đó và học tất cả.
Biến thể 3: Học theo cụm từ đồng nghĩa – trái nghĩa
Đơn giản là bạn sẽ tra các từ gần nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa với từ đang học, giúp chúng ta học được nhiều từ vựng có mối liên hệ với nhau hơn. Cách học này đặc biệt tốt cho bạn nào định thi Viết chứng chỉ vì nó giúp bài viết không lặp từ dù nhiều câu phải diễn đạt cùng một ý, nhờ vậy giúp câu diễn đạt phong phú và linh hoạt hơn.
Biến thể 4: Học theo chủ điểm
Ví dụ chủ đề trái cây thì có cam táo xoài nho…, chủ đề nghề nghiệp thì có cảnh sát, giáo viên, công nhân, ca sĩ…, chủ đề công việc hàng ngày của bạn thì có gì? (bạn nghĩ đi, đây chính là việc xây dựng vốn từ để dùng giao tiếp cho công việc của bạn hoặc đi phỏng vấn xin việc đó).